Nguyên văn chữ Hán:
駐淮安訪淮陰侯釣臺
聞說韓侯舊釣灘 ,
蕭然感古問淮安 。
乾坤空闊英雄遠 ,
山水微忙信誓寒 。
遊子無情歌擊筑 ,
將軍有恨悔登壇 。
南昌泗上皆亭長 ,
厭薄空嗟總一般 。
Phiên âm: Trú Hoài An phỏng Hoài Âm Hầu điếu đài
Văn thuyết Hàn hầu cựu điếu than,
Tiêu nhiên cảm cổ vấn Hoài An.
Kiền khôn không khoát anh hùng viễn,
Sơn thuỷ vi mang tín thệ hàn.
Du tử vô tình ca kích trúc,
Tướng quân hữu hận hối đăng đàn.
Nam Xương, Tứ Thượng giai đình trưởng.
Yếm bạc không ta tổng nhất ban.
Dịch nghĩa: Dừng lại ở đất Hoài An, thăm đài câu cá của Hoài Âm hầu
Nghe nói đó là nơi câu cá khi xưa của Hàn hầu (1),
Nghĩ đến chuyện cũ, lòng cảm khái bèn tìm đến đất Hoài An (3).
Trời đất mênh mang, anh hùng đã xa khuất,
Sông núi lờ mờ, lời thề xưa đã nguội lạnh (3).
Du khách vô tình ca bài “kích trúc” (4),
Tướng quân hối hận đã lên đài nhận ấn phong hầu (5).
Những kẻ ở Nam Xương hay Tứ Thượng đều là đình trưởng (6),
Than ôi, bọn họ đều phường bạc bẽo cả.
Chú thích:
(1) Hàn hầu: Hoài âm hầu là tước phong của Hàn Tín.
(2) Hoài An: Địa danh thuộc tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), gần huyện Hoài Âm, đất phong của Hàn Tín.
(3) Khi phong tước hầu cho các công thần, Hán Cao Tổ có thề: “Dù cho sông Hoàng Hà cạn đi chỉ còn như cái đai áo, núi Thái Sơn mòn đi chỉ còn như hòn đá mài, thì đất phong vẫn còn đó, để lại cho con cháu muôn đời sau …”
(4) Kích trúc: gõ cái “trúc”, là một nhạc khí thời cổ. Bạn Kinh Kha là Cao Tiệm Ly gõ cái “trúc”, Kinh Kha hát hòa theo, trong đó có câu “Tráng sĩ một đi không trở về”, sau đó qua sông Dịch vào đất Tần. Lê Quý Đôn dùng hai chữ “kích trúc” để gợi lại số phận bi thảm của Hàn Tín bị Lã Hậu, vợ Hán Cao Tổ giết.
(5) Khi Hàn Tín bị buộc tội mưu phản, ông hối hận khi xưa đã lên đài bái nhận tước phong, coi đó là bước mở đầu cho những tai họa của mình sau này.
(6) Khi còn hàn vi, Hàn Tín phải nương nhờ một tên đình trưởng ở đất Nam Xương, hắn đối xử với Hàn Tín rất bạc. Lưu Bang vốn cũng xuất thân là một đình trưởng ở đất Bái (tức Tứ Thượng), nay ở về phía Đông huyện Bái, tỉnh Giang Tô.